Chuyển đến nội dung chính

Cảnh báo: Trẻ nhỏ ngộ độc do ăn lô hội

Hiện nay, một số người hay cho trẻ nhỏ ăn lá cây nha đam (lô hội) để chữa viêm họng, viêm VA... Khi ăn lô hội, trẻ nhỏ thường cảm thấy dễ chịu, do họng viêm bị khô rát, nhất là sau khi điều trị bằng kháng sinh. Cho nên, lô hội đã trở thành một “món ăn khoái khẩu” của nhiều bệnh nhi. Tuy nhiên ăn như vậy có ảnh hưởng đến sức khỏe hay không?

Cây lô hội (nha đam) có tác dụng giải độc, thông tiện, tuy nhiên dùng cho trẻ nhỏ cần thận trọng.

Trước hết, trong sách thuốc Đông y hiện đại, lô hội được xếp vào nhóm thuốc “tả hạ” (tẩy, thông đại tiện).

Theo Đông y, lô hội có vị đắng, tính lạnh, hơi có độc (hữu tiểu độc), đi vào 4 kinh can, tâm, tỳ và đại tràng. Có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, giải độc, thông tiện (thông đại tiện), sát khuẩn. Chủ trị nhiệt kết tiện bí (bí đại tiện do nhiệt độc kết đọng), phụ nữ bế kinh, tiểu nhi kinh giản (trẻ nhỏ kinh phong, lên cơn co giật).

Khi sử dụng lô hội cũng như tất cả các vị thuốc khác, cần chú ý tới vấn đề nghi kỵ (nên và không nên) như sau:

Đông y cho rằng, lô hội là vị thuốc đắng, lạnh, có tác dụng thanh nhiệt mạnh, thích hợp với các chứng bệnh cấp tính do hỏa nhiệt gây nên (thực hỏa); những người tỳ vị hư hàn phúc tả (tiêu chảy do cơ thể suy yếu, thuộc thể hư hàn), người chán ăn.

Theo kết quả nghiên cứu hiện đại, lô hội sử dụng với liều nhỏ (0,05 - 0,1g) là một vị thuốc bổ, giúp sự tiêu hóa, do có tác dụng kích thích nhẹ niêm mạc ruột và không cho cặn bã ứ đọng lâu trong ruột. Với liều cao, lô hội trở thành thuốc tẩy mạnh, dễ gây sung huyết các cơ quan ở bụng, nhất là ở ruột già, do đó không dùng cho người lòi dom (trực tràng sa ra ngoài hậu môn) và có thai.

Dùng liều quá cao có thể gây ngộ độc, với những biểu hiện như phân quá nhiều, yếu toàn thân, mạch chậm, thân nhiệt hạ thấp,... thậm chí chết người.

Do có tính năng thanh nhiệt, giải độc và sát khuẩn nên lô hội có thể sử dụng để chữa một chứng viêm do nhiễm khuẩn, bao gồm viêm đường hô hấp trên và viêm VA. Tuy nhiên, như trên đã nói, chỉ nên sử dụng với các bệnh nhiệt, trong giai đoạn cấp tính (thực hỏa - theo Đông y) và chỉ sử dụng với liều nhỏ (theo nghiên cứu hiện đại).

Tuy nhiên, lô hội là vị thuốc đắng, lạnh và hơi độc, nếu sử dụng lâu ngày ắt sẽ dẫn tới hậu quả xấu - khiến cho âm dương khí huyết mất cân bằng, chức năng tạng phủ bị rối loạn, chủ yếu là chức năng của thận bị tổn hại. “Hay đi tiểu, tiểu liên tục, mỗi lần chỉ són ra một chút” là biểu hiện của tình trạng rối loạn đó.

Theo Đông y, quá trình chuyển hóa dịch thể trong nhân thể liên quan chủ yếu tới 3 tạng phế, tỳ và thận, trong đó tạng thận đóng vai trò chủ yếu, cho nên Đông y mới nói “Thận chủ thủy”. Một khi tạng thận bị thương tổn, quá trình chuyển hóa thủy dịch bị trục trặc, thường dẫn tới một số bệnh lý mà Đông y gọi là “khai đa hợp thiểu” (mở nhiều đóng ít), như đái nhiều, đái són, nước tiểu tự chảy ra (niệu thất cấm)... Ngược lại, cũng có thể dẫn đến những chứng trạng thuộc loại “hợp đa khai thiểu” (đóng nhiều mở ít), như đái ít, bí đái, phù thũng,...

Tóm lại, dùng lô hội, cũng như tất cả các vị thuốc Nam khác, cần sử dụng đúng với tình trạng bệnh, phù hợp với đặc điểm thể chất, độ tuổi từng người. Thuốc Nam và thuốc tân dược rất khác nhau. Hiện nay, giới y học đã thừa nhận, muốn sử dụng thuốc Nam hiệu quả, cần tuân theo những nguyên tắc, phương pháp dùng thuốc của Nam dược.


Lương y THÁI HƯ

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa cảm mạo, ho, sốt nóng với cây đại ngải

Cây đại ngải còn có tên khác là đại bi, từ bi xanh, bơ nạt, người Tày gọi là phặc phả, người Thái gọi là co nát. Là loại cây nhỏ, cao khoảng 1 - 3m, thân phân cành ở phía ngọn, nhiều lông. Lá mọc so le, phiến lá có lông, mép có răng cưa hay nguyên. Cụm hoa hình ngù ở nách lá hay ở ngọn, gồm nhiều đầu, trong mỗi đầu có nhiều hoa màu vàng. Quả bế có lông. Cây ra hoa tháng 3 - 5, có quả tháng 7 - 8. Toàn cây có lông mềm và tinh dầu thơm. Cây mọc hoang khắp nơi, nhiều nhất ở trung du và miền núi. Thu hái toàn cây vào mùa hạ và mùa thu, dùng tươi, hoặc phơi hay sấy khô. Theo y học cổ truyền, cây đại ngải có vị cay và đắng, mùi thơm nóng, tính ấm; có tác dụng khu phong, tiêu thũng, hoạt huyết, tán ứ. Có công dụng trị thấp khớp, đòn ngã tổn thương, sản hậu đau lưng; đau bụng sau khi sinh, đau bụng kinh; cảm mạo,... Dùng ngoài chữa chấn thương, mụn nhọt, ghẻ ngứa, lấy lá giã đắp hoặc nấu nước tắm. Có thể làm thuốc ngâm rượu để xoa bóp chỗ đau. Một số bài thuốc thường dùng: Bài 1: Chữa ho do cả...

Hương nhu tía

Hương nhu tía là cây dùng để làm thuốc chữa bệnh rất quen thuộc trong nhân dân, trong y học cổ truyền hương nhu tía là vị thuốc chữa nhiều bệnh, đặc biệt là vị thuốc giải cảm khi bị lạnh hay đi mưa nhiễm lạnh rất hiệu quả. Xin giới thiệu một vài đơn thuốc chữa bệnh có sử dụng hương nhu tía. Hương nhu tía còn có tên gọi là é rừng hay é tía. Cây thường mọc hoang ở nhiều nơi trong cả nước, nhưng cũng được trồng làm thuốc quanh nhà. Để làm thuốc chữa bệnh, thường thu hái hương nhu phần trên mặt đất, chủ yếu là cành có hoa, dùng tươi hoặc phơi ở nơi ít ánh nắng nhưng thoáng gió, nhiệt độ 30-40 độ C (gọi là phơi âm can). Hương nhu tía vị cay, mùi thơm, tính ấm, vào 2 kinh phế và vị có tác dụng làm ra mồ hôi, giải cảm, giảm sốt, lợi tiểu, dùng chữa cảm lạnh, tiêu chảy do lạnh, trị chứng hôi miệng... Hương nhu trắng. Chữa cảm lạnh hoặc đi mưa bị nhiễm lạnh (triệu chứng: phát sốt phát rét, đầu nhức, bụng đau, miệng nôn, đi tiêu lỏng..): Hương nhu tía 500g, hậu phác tẩm gừng nướng 200g, bạch biể...

Hạt kê vàng tí hon, thuốc quý của muôn nhà

Cây kê còn gọi là tiểu mễ, bạch lương túc, túc cốc, cốc tử… được trồng phổ biến và khá quen thuộc với mọi người. Hạt kê được xem là loại lương thực phụ, trong nhân dân thường nấu cháo kê hay hay ăn với bánh đa gọi là bánh đa kê được nhiều người ưa thích. Không chỉ sử dụng làm thực phẩm, là loại giàu dược tính nên hạt kê được sử dụng trong trị liệu nhiều bệnh. Theo Đông y, kê có vị ngọt, tính hơi hàn, có tác dụng bổ trung ích khí, trừ được những chứng phiền khát. Cháo kê thông được tiểu tiện, chữa được chứng phiền khát vì dạ dày nóng quá. Hạt kê có tác dụng hòa trung, bổ thận, khỏe tì vị trừ nhiệt, giải độc, giải khát, lợi tiểu tiện. Chủ yếu dùng cho tì vị hư nhiệt, đau bụng nôn mửa, chống thiếu nước khi tiêu chảy. Theo y học hiện đại, hạt kê chứa rất nhiều melatonin, chất có tác dụng trấn tĩnh tinh thần và gây buồn ngủ, vì thế cháo kê là một món ăn rất bổ dưỡng giúp có được một giấc ngủ ngon. Hạt kê có tác dụng hòa trung, bổ thận, giải độc, tiêu khát... Một số bài thuốc chữa bệnh từ hạ...